Giới thiệu
Gia phả Tộc Võ Văn được Cụ ông Võ Văn May ( sinh năm 1923), hậu duệ đời thứ 7 (thuộc chi phái thứ - thứ hai) chấp bút tại thôn Phước Thịnh, xã Đức Thạnh, huyện Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi. Ngày bắt đầu khởi biên là ngày 30 tháng 03 năm 2004, (nhằm ngày 10 tháng 2 nhuận, năm Giáp Thân) tại thôn Phước Thịnh, xã Đức Thạnh, huyện Mộ đức, tỉnh Quảng Ngãi. Và Gia phả được lập thành ngày 01 tháng 12 năm 2004 (nhằm ngày 20 tháng 10 năm Giáp Thân).
Trong lời tri ân sau khi chấp bút hoàn thành Gia phả, Cụ ông Võ Văn May có viết: "Viết đến những dòng chữ này lòng tôi rạo rực mừng vui, chúng ta đã tìm được cội nguồn tổ tộc, đã biết tên cụ Thủy tổ và các bậc tiền nhân từ đời thứ 4 trở về trước. Tôi tin tưởng rằng, các thế hệ con cháu cùng huyết thống sẽ cùng nhau giữ gìn, biên ghi tiếp vào gia phả những thế hệ kế tiếp sau này." Đáp lại sự mong mỏi, tin tưởng và tâm huyết của Cụ ông Võ Văn May, con cháu trong gia đình cụ ông và con cháu trong Tộc họ Võ Văn đã lập lên Trang Web tocvoquangngai.net là nơi để con cháu tộc họ Võ Văn xã Đức Thạnh, huyện, Mộ Đức, tỉnh Quảng Ngãi khắp nơi tụ họp để giữ gìn và phát huy truyền thống của tổ tông dòng tộc, giữ gìn và tiếp tục biên ghi Gia phả tộc Võ Văn một cách đầy đủ và sống động, lưu truyền cho con cháu mai sau. Trang Web cũng là nơi lưu giữ lại những thông tin, hình ảnh về các hoạt đông của con cháu Tộc Võ Văn vun đắp cho sự phát triển và trường tồn của dòng họ qua năm tháng.
Trang Web mới ra đời mong được sự ủng hộ của con cháu trong dòng tộc để hoàn thiện dần.
Sau đây, xin đăng tải lại toàn bộ những lời tâm huyết của Cụ ông Võ văn May khi chấp bút làm cuốn Gia Phả tộc họ Võ Văn thay lời giới thiệu cho Trang Web tocvoquangngai.net.
Hoàn cảnh khi chấp bút biên ghi gia phả:
Khi chấp bút biên soạn lại gia phả này thì những người cao tuổi trong tộc họ, biết nhiều về lịch sử họ tộc không còn ai. Người chấp bút khi thực hiện biên soạn lại gia phả này cũng đã vào tuổi 81, nhưng tinh thần vẫn còn minh mẫn. Gia phả được biên ghi lại chủ yếu trên cơ sở tham khảo các tư liệu về cội nguồn tổ tộc, truyền lưu huyết thống qua các đời được lưu giữ trong cuốn Tộc Phả bằng chữ nho do tiền nhân để lại mà con cháu ngành trưởng lưu giữ. Ngoài ra người chấp bút nương theo những tư liệu còn sót lại trong trí nhớ để biên ghi. Xin trải tấm lòng thành kính tri ân các bậc tiền nhân và ngành trưởng đã tạo tư liệu để hoàn thành gia phả.
Phần I: Tìm về nguồn cội, nhớ ơn tổ tiên, ông bà - cha mẹ:
“Chim có tổ người có tông” là ý tưởng bình dị của dân tộc Việt Nam xưa nay nhưng lại là một ý thức sâu sắc nghiêm trang có ảnh hưởng lớn lao trong mọi tập quán truyền thống của người Việt Nam nhớ ơn tổ tông.
a/- Từ sau ngày kết thúc chiến tranh lâu dài và khốc liệt đến nay, con cháu trong tộc họ Võ Văn chúng ta lần lượt hồi cư về quê hương lo việc làm ăn, lo nghĩ việc thờ phụng tổ tiên, ông bà - cha mẹ, lo việc giỗ kỵ và tảo mộ thường niên đúng lệ kỳ và làm các việc như:
- Xây dựng nghĩa địa của tộc họ, xây mộ phần của ông bà cố.
- Dựng bia các phần mộ đã quy tập về nghĩa địa, xây bia thượng niệm cao tổ và tưởng niệm những người đã khuất trong tộc họ.
- Hoàn thành việc quy tập mộ phần chôn cất các nơi rước về nghĩa địa. hoàn thành việc xây dựng mộ phần của bà tổ cô Võ Thị Huấn.
- Nhiều gia đình trong tộc họ đã lo nghĩ thực hiện việc xây dựng mộ phần của ông bà, cha mẹ, anh em trong chi phái của mình. những việc làm đó đã nói lên lòng hiếu nghĩa của con cháu đối với tổ tiên, ông bà - cha mẹ và anh em của mình theo đúng đạo lý “có tổ tiên sinh ra ông bà, có ông bà sinh ra cha mẹ, có cha mẹ mới có người sinh ra mình”.
b/- Nghĩa địa tộc họ Võ Văn:
Nghĩa địa tộc Võ Văn hiện nay nằm trong vùng đất rẫy có tên gọi là Giếng Bà Mao, một giếng nước có từ lâu đời, nổi tiếng trong, mát lại hiền lành, nước giếng lấy lên uống sống không hề có đau bụng. Bà Mao là tên của bà chủ có giếng nước nói trên, nhưng bà là con dâu đời thứ mấy của họ tộc thì chưa rõ, vì xem trong tộc phả chưa tìm thấy tên bà. Đến đời thứ 4 trở đi, con cháu trong tộc họ phát triển đông lên, đất đai ít lại cằn cỗi, đời sống khó khăn, túng thiếu nên con cháu trong tộc họ lần lượt di cư đi nơi khác để sinh sống. Bà nội và bà nội thúc là người dời cư sau cùng rời khỏi khu vực giếng bà Mao. Lúc đầu bà nội về thôn Phước Thịnh ở nhờ chái nhà của cụ Câu Tòng, về sau bà về ở xóm Vuông trên nền nhà hiện nay chị Tám (con dâu bác Thi) đang ở.
Tuy đã dời cư khỏi khu vực rẫy, bà nội vẫn đứng tên chủ quyền quản lý sản xuất. đến năm 1915, khi bà cưới vợ cho cha tôi, bà nội viết sính đứng tên cầm tiền cưới khoảnh đất có diện tích là 1 sào 10 thước trung bộ. Từ đó trở đi khu vực rẫy này thuộc quyền quản lý canh tác của cha mẹ tôi. Khi cha mẹ tôi qua đời, anh em tôi tiếp tục sản xuất.
Ông bà nội đều qua đời tại thôn Phước Thịnh. Ông qua đời trước bà khoảng từ 3 đến 4 năm. Mộ táng của ông bà tại cánh đồng xứ Nghĩa Lũng. Sau này dời về nghĩa địa học tộc Võ Văn.
Năm 1978, UBND và HTX Nông nghiệp xã Đức Thạnh có chủ trương quy hoạch đồng ruộng, quy tập mồ mả về vùng cát. Tôi viết đơn xin lại vùng đất rẫy giếng bà Mao để xây dựng nghĩa địa cho tộc họ Võ Văn. Từ khi tộc họ có nghĩa địa, các mộ phần của người trong tộc họ chôn cất ở các cánh đồng: Đồng Găng, Nghĩa Lũng, Gò Chòi, Gò Lũng và các nơi khác được quy tập về nghĩa địa và xây bia mộ phần.
Hàng năm vào ngày mồng một tháng chạp âm lịch, con cháu nội ngoại trong tộc họ hội tụ về đầy đủ để tảo mộ, dẫy cỏ, đắp đất, dâng hương thượng niệm cao tổ, và tưởng niệm ông bà - cha mẹ và sau đó về nhà thờ tổ chức lễ cúng kính tổ tiên, ông bà - cha mẹ. sau cùng là các con cháu cùng quây quần hậu hưởng lễ vật đã dâng cúng với tinh thần đoàn tụ trong tình huyết thống anh em một nhà.
c/- Gia phả là cơ sở đảm bảo để tìm cội nguồn:
Trong một thời gian dài do chiến tranh gây ra, đời sống có nhiều khó khăn, con cháu trong tộc họ phải dời cư chỗ ở nhiều lần, nhiều nơi xa, lâu ngày không gặp nên có nhiều trường hợp anh em trong họ không biết nhau. Khi gặp nhau, ngồi lại phải đem gốc tích ra kể cho nhau nghe. Vật chứng đảm bảo cho lời kể là gia phả thì các gia đình trong tộc họ đều không có, chỉ trừ nhà trưởng có bản tộc phả, lại viết bằng chữ nho, trong họ tộc không có người đọc được. Bên cạnh đó các bậc trưởng thượng cao niên am hiểu nhiều về lịch sử của tộc họ đều đã qua đời khiến cho việc tìm hiểu cội nguồn họ tộc của con cháu gặp nhiều trở ngại. Nhất là con cháu sinh ra trong và sau cuộc chiến tranh kéo dài 30 năm lại càng không hiểu được gì về truyền lưu huyết thống thiêng liêng của tộc họ. Nhằm để lại cho con cháu các đời sau có sự hiểu biết căn bản rõ ràng, đầy đủ hơn về các vấn đề thuộc về sự lưu truyền huyết thống trong tộc họ, tạo sự tin tưởng, củng cố tinh thần gia tộc và việc thờ phụng tổ tiên, ông bà – cha mẹ, làm tròn bổn phận con cháu theo đạo lý dân tộc việt nam “chim có tổ người có tông”. đó là nguyên nhân chủ yếu thôi thúc lòng tôi tập trung sức lực, trí tuệ để sưu tầm sử liệu của họ tộc, biên ghi tập gia phả này.
Phần II. Ý nghĩa của việc lập gia phả:
Biên soạn gia phả là biên ghi những điều cần thiết liên quan đến mọi người trong họ tộc và gia đình. đó là mạch nối liên kết đời sống tinh thần của những người cùng chung huyết mạch.
Gia phả chẳng những dùng để thực hiện gia lễ, gia phong, gia giáo mà còn để phát huy bảo tồn đạo lý gia tộc, trong đó có việc thờ phụng tổ tiên, ông bà – cha mẹ là bổn phận thiêng liêng quan trọng hàng đầu không thể khinh suất của mỗi người.
Gia phả giúp cho mọi thế hệ trong gia đình biết rõ cội nguồn và bày tỏ lòng hiếu nghĩa đối với tổ tiên, ông bà, những người trong dòng họ đã khuất bóng.
Gia phả lưu giữ ngày giờ sống vàchết của những người trong dòng họ đã khuất bóng. dựa vào đó hàng năm, con cháu làm giỗ kỵ tưởng nhớ đến những người đã khuất. trong giỗ kỵ có làm tiệc thức ăn sang trọng để cúng kính. sau đó con cháu quây quần bên nhau ăn bữa cơm trong tình huyết nhục. giỗ kỵ là dịp gia phả đựơc đem ra đọc để con cháu nhớ rõ nguồn gốc tộc họ, hiểu biết thêm về các chi nhánh họ hàng, anh em trong tộc họ.
Phần III. Thờ phụng tổ tiên, ông bà – cha mẹ và những người đã khuất:
“Cây có cội mới nẩy cành xanh ngọn
nước có nguồn mới có biển rộng sông dài”
Việc thờ phụng tổ tiên, ông ba - cha mẹ tại Việt Nam, là sự gặp gỡ thế giới hữu hình và thế giới tâm linh. Người chết đi thể xác tuy trở về với đất nhưng linh hồn bất diệt vẫn luôn tồn tại với những người thân trong gia đình.
Tục cho rằng vong hồn của những người đã khuất luôn ngự trị nơi bàn thờ để gần gũi con cháu, theo dõi con cháu trong công việc hàng ngày, giúp đỡ con cháu trong những công việc cần thiết. Tin tưởng có vong hồn tổ tiên, ông bà - cha mẹ ngự trị trên bàn thờ ảnh hưởng nhiều đến hành vi của người sống, nhiều người sợ vong hồn ông bà – cha mẹ đau buồn đã phải suy nghĩ cân nhắc mỗi khi quyết định làm một điều gì với suy nghĩ lúc sinh thời việc đó ông bà – cha mẹ có đồng ý với việc làm này không ?
Vào những ngày giỗ kỵ, gia phả được đem ra đọc sẽ giúp cho người trong họ tộc có mối thông thương giữa người sống với người chết, giữa các thế hệ con cháu với các bậc tiền nhân.
Gia phả là một báu vật không vàng bạc, châu báu nào sánh kịp. nơi lưu giữ tông tích họ hàng ruột thịt, cội nguồn sức mạnh của mỗi con người.
Phần IV. Lời đa tạ tri ân:
Chúng con mãi mãi ghi nhớ công ơn của tổ tiên, ông bà – cha mẹ đã để lại tộc phả cho con cháu. Bản tộc phả tạo rất nhiều thuận lợi và là cơ sở chính để xây dựng quyển gia phả này đựơc thông suốt từ đời cụ thủy tổ khai sáng tộc họ võ văn đến đời thứ 10. Thờ phụng tổ tiên, ông bà – cha mẹ là một trong những đạo lý làm người không nên khinh suất. tất cả đó là kinh nghiệm đời, bài học đem lại bình an cho tâm hồn.
Trong lúc biên soạn gia phả từ việc sưu tầm, tập hợp số liệu đến việc bố cục sắp xếp sau trước, từng phần trong gia phả, tuy đã có nhiều thận trọng cố gắng, song chắc chắn không tránh khỏi sự sót lọt, nhầm lẫn do năng lực có hạn, lực bất tòng tâm và hậu sinh không sao hiểu hết. Kính xin ông bà – cha mẹ tha thứ cho điều quở trách, mong muốn các lớp con cháu tiếp tục bổ sung những điều nghe biết chính xác vào gia phả để cho gia phả của tộc họ được đầy đủ và xúc tích hơn.
Viết đến những dòng chữ này lòng tôi rạo rực mừng vui, chúng ta đã tìm được cội nguồn tổ tộc, đã biết tên cụ Thủy tổ và các bậc tiền nhân từ đời thứ 4 trở về trước. Tôi tin tưởng rằng, các thế hệ con cháu cùng huyết thống sẽ cùng nhau giữ gìn, biên ghi tiếp vào gia phả những thế hệ kế tiếp sau này.
Người chấp bút
VÕ VĂN MAY